Trong bài viết này chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về file Style. Chúng ta sẽ tìm hiểu phần Style và phần CASM.

Phần STYLE

Style là một hình thức đặc biệt của file midi "tuýp" 0, kèm theo nhiều phần thông tin (lệnh).

Để làm việc, style phải được "load" vào PSR. PSR tiến hành đọc file và thiết lập một số cài đặt cho nhạc cụ  căn cứ vào các phần "midi, thông tin" có trong file. Khi bắt đầu cho PSR đệm nhạc tự động (Start), những phần của midi được phát lên, có liên quan đến trạng thái của các nút điều khiển style.

Ở bên trong, một style bắt đầu xác định Tempo, Time Signature (4/4, 3/4...), bản quyền... có trong nhiều phần của file. Những phần nầy được định nghĩa bởi dữ liệu Marker.

Hai dữ liệu (data) đầu tiên là SFF1 và SInt, chiếm trọn khuông đầu tiên của phần midi, trong đó có Midi On (phát nốt nhạc) cộng với nhạc cụ mặc định (tùy theo lệnh) và một số hiệu ứng DSP (echo), áp dụng vào mỗi track (tức mỗi thằng nhạc công, channel).

SFF1 và SInt coi như là một  Marker đầu tiên (chiếm một khuông đầu tiên). Khuông nầy không có phát ra tiếng trên cây Organ, nó chỉ là "lệnh". Các Marker khác như Intro, Main A... định rõ kiểu mẫu của âm nhạc. Intro phát chỉ một lần khi được "kích" và sẽ chuyển qua phần kế đó tùy theo ta chọn, như Main A hoặc Main B...

Các Main ABCD sẽ lặp đi lặp lại đến khi ta bấm Stop hoặc bấm Ending hoặc bấm Intro lại. Phần Ending chỉ phát một lần và style chấm dứt. Fill Ins thì phải được bấm riêng hoặc tự động Fill (nếu mở Auto Fill) khi ta bấm một Main khác.

Fill Ins (tức báo trống) thì giới hạn là một khuông. Các phần khác (Main, Intro, Ending...) có thể kéo dài 255 khuông, nhưng điển hình là từ 2 đến 8 khuông.

Các bạn chú ý mấy con số sau:

+ Decimal: là thập phân. Số thập phân được viết ra mà không có chữ đầu hay chữ cuối gì cả (như 256).

+ Hexadecimal: là thập lục phân. Số thập lục phân được viết ra kèm chữ cuối là 'H" (như 1FH, 25H...).

+ Binary: là nhị phân. Số nhị phân được viết ra kèm chữ cuối là "B" (như 00001110B).

File Style có thể có những "đuôi" khác nhau. Hiện tại, được biết những cái đuôi sau đây:

+ ".sty"  Standard
+ ".bcs"  Basic
+ ".prs"  Professional
+ ".sst"  Session
+ ".pcs"  PianoCombo
+ ".pst"  Pianist

Những kiểu file style nầy có cùng hình thức. Mấy cây Organ cũ có lẽ cần file style có đuôi là ".sty".Trong trường hợp nầy, chỉ cần sửa tên lại (tức rename) cho thành đuôi ".sty" thì sẽ làm việc được.

Một style đơn giản chỉ là một file midi tiêu chuẩn (standard). Midi nầy phải là file midi "tuýp" 0. Nó gồm một chuỗi nốt nhạc của style cũng như gồm có một vài thông tin điều khiển. Những dữ liệu midi nầy phải theo một số quy luật.

File style hiện đại được phát triển bằng cách thêm vào  những phần data đặc biệt ở cuối của file midi nầy.

File style "phát triển" bao gồm một hoặc nhiều phần khác nhau như sau đây :

-- MIDI là phần thuộc về lệnh.

-- CASM là tùy chọn (khi có khi không).

-- OTS là tùy chọn.

-- MDB là tùy chọn.

-- MH (ít dùng) là tùy chọn.

Phần midi là phần chỉ thuộc về lệnh. Nó gồm có một loạt âm nhạc. Phần CASM gồm có những thông tin trải rộng thêm để cây organ biết cách "phiên dịch" và kiểm soát sự Play.Tác giả dùng CASM để tạo ra những thông tin quan trọng. Nó là tùy chọn. Có thể bỏ nó ra và như thế sự diễn xuất lại sẽ không chính xác.

Phần CASM

Những thông tin trong CASM là cần thiết nếu phần midi (tiêu chuẩn) không theo quy luật cùa file style dơn giản. Có nghĩa là nếu file style đơn giản đúng quy luật thì không cần phần CASM. Làm style trên mấy cây organ cũ sẽ không cần phần CASM. Phần CASM sẽ  hướng dẫn cho nhạc cụ xử lý data của midi, bao gồm:

-- Phân công 16 channel (có thể có) của midi vào 8 thằng nhạc công của một style (9=trống phụ, 10= trống chánh, 11= bass, 12= chord1, 13= chord2, 14= pad, 15= phrase1, 16= phrase2).  Nhiều hơn một channel midi cũng có thể phân công "ém" vô chung 8 thằng nhạc công (kêu là đệm nhạc tự động, accompaniment).

-- Cho phép PSR edit bất cứ thằng nhạc công nào (chơi nốt khác hay dùng tiếng khác, hoặc nhét 2 thằng nhạc công vô một chỗ). Nếu một track (nhạc công) của style (nhạc đệm) có hơn 2 nguồn midi (tức 2 thằng nhạc công vô một track) thì không thể edit được.

-- Làm câm, làm phát ra những nốt nhạc hay ắc-co đặc biệt. Trên thực tiển chỉ dùng cách lựa chọn ắc-co (hợp âm).

-- Bộ khóa nhạc (thăng giảm định hợp âm) dùng trong kênh midi. Style thì thường dùng nhiều hợp âm khác nhau (tức bộ khóa) cho data midi. Một style không có CASM phải là ở bộ khóa ton CMaj7. Cái nầy khác với ton sếch C7!!!+

-- Phương cách mà nốt và hợp âm chuyển dịch khi chord (bấm or) thay đổi và phương cách nốt nhạc duy trì.

-- Khoảng cách những nốt nhạc được tạo ra (giới hạn hai đầu).

Lưu ý, chỉ có duy nhất một phần CASM trong một style.